21/10/2024
ĐỀN KỲ SẦM
Đền Kỳ Sầm tọa lạc trên một quả đồi thấp, sát chân núi Khau Sầm thuộc địa bàn thôn Bản Ngần (nay thuộc xóm 9), xã Vĩnh Quang, thành phố Cao Bằng.

Ngôi đền thờ nhân vật lịch sử, danh tướng Nùng Trí Cao, người dân tộc Tày, sống vào nửa đầu thế kỷ XI (1025-1053), dưới triều Vua Lý Thái Tông. Đây là một trong những ngôi đền được nhân dân xây dựng từ lâu và trải qua trùng tu tôn tạo nhiều lần, có quy mô lớn vào bậc nhất trong các loại hình đền, chùa, miếu tỉnh Cao Bằng.
Đền được xây dựng trên một khuôn viên rộng, kiến trúc hình chữ “Nhị”, mang dáng dấp phong cách kiến trúc thời Nhà Nguyễn, có nhà bái đường và hậu cung. Tại nhà bái đường có một ban thờ. Phía trong hậu cung có ba ban thờ, chính giữa thờ Nùng Trí Cao, bên trái thờ mẹ A Nùng, bên phải thờ ba người vợ: Vương Lan Anh, Đoạn Hồng Ngọc và Trần Thị Cầm (nàng Cầm). Quá trình gây dựng ngôi đền, với lòng ngưỡng mộ vị dũng tướng, nhân dân đã cung tiến một số đồ thờ quý, như đôi hạc bằng đồng, một số lư hương, chuông đồng…., trong khuôn viên đền có ba cây cổ thụ được công nhận là cây di sản Việt Nam: cây đa tía, cây muỗm, cây gạo với tán lá xum xuê, làm cho ngôi đền thêm trầm mặc linh thiêng.
Nùng Trí Cao sinh năm 1025, là con của Nùng Tồn Phúc, thủ lĩnh châu Thảng Do. Ngay từ thuở thiếu thời, Nùng Trí Cao là một cậu bé khỏe mạnh, đẹp trai, hiếu động, thông minh lạ thường, học giỏi chữ nghĩa, võ nghệ như bẩm sinh. Năm 1038, Nùng Tồn Phúc chiếm hai châu Vũ Lặc và Quảng Nguyên, lập nên nước Trường Sinh, tự xưng là Chiêu thánh Hoàng đế, lập vợ A Nùng làm Minh Đức Hoàng hậu, cát cứ một phương, án ngữ một vùng biên viễn rộng lớn phía Đông-Bắc nước ta. Năm sau, 1039, Vua Lý Thái Tông thân chinh dẫn đại quân đi dẹp nước Trường Sinh, Nùng Tồn Phúc và con trưởng Nùng Trí Thông bị bắt, đem về kinh đô xử tử. A Nùng và con thứ Nùng Trí Cao chạy thoát được trốn đến Động Lôi Hỏa, phía Tây-Bắc tỉnh Cao Bằng ngày nay, thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tại nơi đây, hai mẹ con khẩn trương tập hợp quân sĩ, ngày đêm rèn luyện võ nghệ, xây dựng lực lượng binh đao, ngựa chiến.
Năm 1041, khi đó Nùng Trí Cao 16 tuổi, đã cùng mẹ A Nùng dẫn binh từ Động Lôi Hỏa chiếm lại châu Thảng Do, chiêu tập binh mã dựng nước Đại Lịch. Triều Lý cử đại quân lên đánh và bắt được Nùng Trí Cao dẫn về kinh đô. Sau khi xem xét, nhận định tình thế, cần trấn yên vùng biên, bảo vệ lãnh địa quốc gia, Vua Nhà Lý miễn tội cho Nùng Trí Cao và tiếp tục cho quản lý châu Thảng Do; đồng thời, ban cho thẩm quyền cai quản thêm một vùng rộng lớn, gồm các động: Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và châu Tư Lang, sắc phong Nùng Trí Cao làm châu mục Quảng Nguyên. Năm 1043, Vua Lý Thái Tông sai người đến châu Quảng Nguyên, ban sắc phong cho Nùng Trí Cao chức Thái Bảo, một trong ba tước quan cao cấp nhất triều đình và giao cả đô ấn. Năm 1048, Nùng Trí Cao khởi binh ở Động Vật Ác, đánh chiếm luôn châu An Đức, thuộc đất Nhà Tống (Trung Quốc) làm căn cứ địa. Hai năm sau (1050), thừa thế binh hùng tướng mạnh, Nùng Trí Cao đánh chiếm Động Vật Dương (thuộc đất Tống), rồi xưng Vương, lập Nam Thiên Quốc, lấy niên hiệu là Cảnh Thụy. Chiến công kế tiếp chiến công, cương vực bờ cõi rộng mở nhanh chóng. Tuy vậy, Nùng Trí Cao vẫn có ý giảng hòa với Nhà Tống, năm 1051, cho người đem châu báu, vàng bạc, ngà voi đến biếu cống, nhưng bị triều đình Tống khước từ.
Trước tình thế đó, năm 1052, Nùng Trí Cao dẫn 5.000 quân tiến đánh thành Ung Châu và Quảng Châu. Sau khi làm chủ Ung Châu, Nùng Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng đế; đổi niên hiệu là Khải Lịch, quốc hiệu là Đại Nam. Nùng Trí Cao ra lệnh phá nhà tù, đại xá tù nhân, mở các kho hậu cần, lương thực của quân Tống phân phát cho dân nghèo. Do đó, lực lượng của Nùng Trí Cao phát triển mạnh mẽ.
Năm 1053, Nhà Tống cử Địch Thanh, một viên tướng nổi tiếng triều đình, dẫn đầu đại quân hùng hổ đi đánh quân Nùng Trí Cao. Lần này, Nùng Trí Cao bại trận phải chạy đến vùng đất Đại Lý, thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ngày nay. Nùng Trí Cao sai Lương Châu về kinh đô cầu viện Nhà Lý, nhưng không thể cứu vãn nổi tình thế.
Những năm 13, 14 tuổi, Nùng Trí Cao đã tinh thông cung, kiếm, từ 16 tuổi đến khi mất luôn trên mình ngựa chiến, hầu như không khi nào được nghỉ ngơi, hưởng phúc; cho đến năm 30 tuổi đã tạo dựng nên nghiệp lớn, có thể nói là một nhân vật huyền thoại, hiếm và lạ trong lịch sử của dân tộc ta. Trong cuộc chinh chiến, đến đâu, Nùng Trí Cao đều có chính sách an dân, nên được nhân dân địa phương hết lòng ủng hộ. Song, sau những thắng lợi liên tiếp, quân sĩ Nùng Trí Cao không tránh khỏi những hạn chế dẫn đến thất bại của một đạo quân địa phương hợp thành. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao đã chứng tỏ ý chí quật cường của các dân tộc thiểu số miền biên giới phía Bắc chống lại ách áp bức bóc lột hà khắc của các thế lực phong kiến thống trị. Lực lượng quân sự Nùng Trí Cao với phương châm chủ động tiến đánh, phòng vệ từ xa, đã đập tan âm mưu, thủ đoạn của Nhà Tống hòng lăm le xâm lược nước ta; góp phần bảo vệ cương vực phía Bắc của Tổ quốc.
Là một viên tướng trẻ ý chí kiên cường, quyết tâm cao, nhiệt huyết, võ nghệ xuất chúng, quân sự tài năng, thao lược, nhạy bén về chính trị, ngoại giao; hơn nữa, Nùng Trí Cao còn là một thủ lĩnh tinh thần đầy nhân văn, đi đến đâu đều được nhân dân quý mến. Cuộc đời và sự nghiệp của Nùng Trí Cao trong tâm thức nhân dân như một huyền thoại sống động, mạnh mẽ, can trường đầy khí phách của một vị dũng tướng miền biên ải đã đi vào từng câu chuyện dân gian, từng trang sách truyện và lịch sử nước nhà. Là người con của dân tộc Tày ở Cao Bằng, nhưng đều được các dân tộc thiểu số như Nùng, Cơ lao, La chí….trân trọng coi đây là thủy tổ của mình. Đặc biệt, phạm vi ảnh hưởng của viên tướng trẻ danh tiếng Nủng Trí Cao được lan tỏa đến các tỉnh thuộc vùng Đông-Bắc nước ta và các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan, Mianma…Những nơi Nùng Trí Cao đi qua đều được nhân dân dựng đền thờ ghi nhớ công ơn của ông. Nùng Trí Cao còn được coi là một vị anh hùng văn hóa, một vị thần nông linh nghiệm, coi sóc ruộng đồng, mùa màng được thể hiện qua các bài cúng tế. Để tưởng nhớ ơn đức của Nùng Trí Cao, nhân dân nhiều nơi đã lập miếu thờ phụng. Nhà Lý đặc chiếu sắc phong Nùng Trí Cao là Khau Sầm Đại Vương và lập đền thờ tại thôn Bản Ngần, xã Tượng Lặc, châu Thạch Lâm, nay là thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, thành phố Cao Bằng. Đền thờ được Nhà Lý phong Thượng đẳng thần, xuân thu nhị kỳ quốc tế; các triều đại sau gia phong mỹ tự: Khau Sầm tế thế, an dân hãn ngoại, ninh thủy trấn dịch, anh nghị quả đoán hiển ứng thùy hưu, hộ quốc an dân Đại Vương.
Đền Kỳ Sầm đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 43-VH/QĐ của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin ngày 16 tháng 01 năm 1993.
Lễ hội Đền Kỳ Sầm được tổ chức vào ngày mùng 9 và mùng 10 tháng giêng âm lịch hằng năm, gồm phần lễ và phần hội với quy mô khá lớn. Phần nghi thức lễ được tiến hành từ đêm mùng 9 tháng giêng, phần hội mang đậm đà nét văn hóa truyền thống với các trò chơi: đẩy gậy, kéo co, chơi đu, tung còn và các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân ca phong phú, sinh động, đặc sắc. Lễ hội Kỳ Sầm là điểm đến hấp dẫn của khách tham quan du lịch trong và ngoài tỉnh đông vui, náo nhiệt trong dịp trấy hội mùa xuân Non nước Cao Bằng.
ĐỀN QUAN TRIỀU

Đền Quan Triều ngự trên địa bàn xóm Đà Quận, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, đối diện với chùa Viên Minh. Ngôi đền thờ vị tướng tài ba, trung nghĩa Dương Tự Minh có công lớn bảo vệ giang sơn thời Nhà Lý. Từ xa xưa, đền Quan Triều có kiến trúc mặt bằng hình chữ “Nhị”, bao gồm: nhà bái đường và hậu cung. Phía bên phải của đền có một gian thờ nhỏ, thờ công chúa Hồng Liên, người vợ của ông. Đền đã được phong mỹ tự: “Quan Triều-Hồng Liên (Thiều Dung) công chúa thông diệu linh cảm, trợ quốc trấn biên, hoài phục tuệ tĩnh, phụng công vĩ diệt Đại Vương”.
Dương Tự Minh còn được nhân dân tôn sùng là Đức Thánh Đuổm, hay Cao Sơn Quý Minh. Ông là người dân tộc Tày, quê làng Bản Danh, xã Quan Triều, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Cha của ông từng làm quan châu mục lập nhiều chiến công chống quân Tống xâm lược trên phòng tuyến Sông Cầu. Cụ thân sinh Dương Tự Minh vốn là người chính trực, giàu lòng nhân nghĩa, có bao nhiêu bổng lộc được triều đình ban đều chia cho dân nghèo, nên không có nhà cao cửa rộng như người khác. Mãi đến 70 tuổi, hai cụ mới sinh được cậu con trai kháu khỉnh, trong túp lều sáng lên lấp lánh ánh hào quang như tỏa ra từ đứa con. Vì thế, cụ ông thân sinh đặt tên cho con mình là Dương Tự Minh (tự sáng lên). Lớn lên trong gia đình được cha mẹ nuôi dưỡng dạy bảo, Dương Tự Minh trưởng thành nhanh chóng, là một thanh niên khôi ngô, tuấn tú, cao lớn, sức vóc hơn người, đặc biệt là yêu kính mẹ cha, làng, nước, thương quý dân lành. Năm 20 tuổi, trong vùng, bọn phỉ tặc nổi lên hoành hành, cướp phá, dân tình hoang mạng khốn đốn, Dương Tự Minh đã tập hợp trai tráng nghĩa khí lập nên đội dân binh, quyết trừng trị bọn phỉ tặc, làng bản trở nên yên bình. Năm Đinh mùi 1127, Vua Lý Nhân Tông cho mời Dương Tự Minh lên triều, ban thưởng nhiều vàng bạc châu báu và gả công chúa Diên Bình cho ông. Đồng thời, phong chức châu mục vùng thượng nguyên cho ông, trấn trị cả phủ Phú Lương, một địa bàn chiến lược có ý nghĩa bảo vệ vùng biên cương rộng lớn phía Bắc, gồm các châu: Thượng Nguyên, Vĩnh Thông, Quảng Nguyên, Cảm hóa, Vạn Nhai, Tư Nông, Tuyên Hóa; cai quản một vùng lãnh thổ rộng lớn (nay thuộc các tỉnh: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang, một phần Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lạng Sơn).
Mùa xuân năm Giáp tý (1144), nhà Lý lại gả công chúa Thiều Dung (Hồng Liên) cho Dương Tự Minh và phong làm Phò mã Đô úy.
Mùa thu năm Ất sửu (1145), có kẻ yêu thuật người nước Tống là Đàm Hữu Lượng cầm đầu bọn giặc nhà Tống đánh chiếm châu Quảng Nguyên và vùng đất Thông Nông, cướp phá, nhũng nhiễu dân lành. Được tin, nhà Lý xuống Chiếu giao Phò mã Đố úy Dương Tự Minh làm Chánh tướng cùng hai Văn thần Nguyễn Như Mai và Lý Nghĩa Vinh dẫn đầu 2.000 quân đi dẹp giặc. Quân sĩ do ông chỉ huy tiến công như vũ bão, quân giặc náo loạn, tan tác bỏ chạy về phía Bắc. Đàm Hữu Lượng chạy về đến Ung Châu thì bị chặt đầu. Dẹp giặc xong, Dương Tự Minh ổn định lại vùng biên cương, trấn an dân tình và cùng đoàn quân chiến thẳng trở về kinh đô. Vua Lý Anh Tông sai các quan đại thần ra khỏi thành đô 10 dặm cùng nhân dân hân hoan nghênh đón.
Ông còn là vị quan thanh liêm, chính trực dám đương đầu với những tên quan tham lộng hành, mưu mô xảo quyệt như Đỗ Anh Vũ, để cứu lấy triều đình. Nhưng, sự việc không thành, ông trở về vùng núi Đuổm và mất tại đây. Thương tiếc ông, dân gian lưu truyền, rằng: về đến quê nhà, ông cởi bỏ quần áo xuống tắm mát dòng sông Phú Lương, trút bỏ hết bụi trần và mặc lên bộ quần áo chàm xanh người Tày, phi ngựa bay về trời.
Nhân dân trong vùng thương sót, trân trọng, biết ơn công lao của ông, đã dựng Đền thờ Đức thánh Đuổm. Nhà Lý, sau này truy phong ông làm Ủy Viễn Đôn Tỉnh Cao Sơn Quảng Độ Chi Thần, các triều đại phong kiến sắc phong: Thượng đẳng thần, nhân dân thì tôn ông là Đức Thánh. Ông là phò mã hai vị vua Nhà Lý, một danh tướng áo chàm nổi tiếng trung quân, ái quốc, thương dân bậc nhất trong lịch sử nước nhà.
Trên miền đất Cao Bằng, ông đã có công lao dẹp giặc Đàm Hữu Lượng giải phóng một vùng đất rộng lớn, bảo vệ vững chắc dải biên cương phía Bắc của nước Đại Việt. Thời kỳ làm thủ lĩnh phủ Phú Lương, Dương Tự Minh đã cùng công chúa Thiều Dung (Hồng Liên), thường xuyên đến vùng đất Quảng Nguyên an dân, dạy cho dân chúng biết trồng trọt, chăn nuôi, an cư lạc nghiệp. Khi ông mất, nhân dân xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm (nay là xã Hưng Đạo) đã quyên góp xây Đền thờ Quan triều để tưởng nhớ tới công lao, đức độ của ông.
Ngôi Đền được xây dựng từ thời nhà Lý, trải qua bao biến cố thời gian, những dấu tích xưa gần như mất hết, chỉ còn lại phần móng nền khoảng 30m2, được xây bằng gạch vồ thời nhà Mạc. Hiện nay đền đã được tu bổ, tôn tạo lại. Trong khu di tích, phía bên phải đền có một gác chuông rộng chừng 5m2, có quả chuông lớn, cao 178cm, thân cao 142 cm, quai cao 36 cm, đường kính miệng chuông rộng 106cm, cấu tạo, họa tiết giống như chuông chùa Viên Minh. Chuông được đúc từ năm 1611 và cùng với chuông chùa Viên Minh được xếp hạng Di tích nghệ thuật cấp quốc gia, theo Quyết định số 2861-QĐ/BT, ngày 04/9/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin; được công nhận là Bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2496/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 22 tháng 12 năm 2016.
Đền Quan Triều đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, theo Quyết định số 2487/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 11 năm 2008, của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Hằng năm, lễ hội Đền được tổ chức cùng thời gian với lễ hội chùa Viên Minh, tức ngày mùng 08 và ngày mùng 09 tháng giêng âm lịch. Phần lễ được tổ chức vào tối mùng 08, bà con xóm Đà Quận chuẩn bị mâm lễ gồm: thủ lợn, gà, xôi, hoa quả để dâng hương, khấn bái. Ngày 09 là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian sôi nổi, vui tươi: đánh đu, tung còn, ... Vào dịp đó, nhân dân thập phương, khách tham quan, du lịch lại nô nức trẩy hội mùa xuân về với Đền Quan Triều tham dự lễ hội, dâng hương cầu phúc, cầu lộc, cầu an, mong muốn cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
|