21/10/2024
ĐỀN BÀ HOÀNG
Đền Bà Hoàng thuộc địa bàn Tổ 7, phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng; ngôi đền thờ Minh Đức Hoàng Hậu A Nùng, vợ của Nùng Tồn Phúc, mẹ của Nùng Trí Cao.
Khi xưa, Đền Bà Hoàng tọa lạc ven chân núi Kim Pha sừng sững, bạt ngàn rừng đại ngàn nhiệt đới nguyên sinh; cạnh đó, là núi Mã Phi như bầy ngựa chiến nhấp nhô tung vó in hình lên lưng trời xanh thẳm. Phía bên phải là con suối nước trong vắt quanh năm rì rào chảy về cánh đồng Nà Cạn cung cấp nước cho lúa và hoa màu tươi tốt quanh năm. Toàn cảnh phía sau đền như bức tranh thủy mặc rồng bay, phượng múa, sơn thủy hữu tình đẹp huyền ảo, làm cho ngôi đền thêm linh thiêng.
Đền được xây bằng gạch, ba gian lợp ngói âm dương, mỗi gian rộng chừng 3m; hai đầu hồi có trang trí Lưỡng phượng chầu nhật. Năm 1947, thực dân Pháp phá đền, dựng đồn bảo vệ sân bay Nà Cạn, ngôi đền bị phá hủy hoàn toàn, chỉ còn trơ lại nền gạch, không còn dấu tích xưa. Để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh, năm 2016, bằng nguồn kinh phí xã hội hóa, nhân dân vùng Nà Cạn đã dựng lại đền trên nền cũ, mặt tiền hướng Tây-Nam. Gian giữa có một bệ thờ đặt tượng Bà Hoàng đội mũ màu vàng. Hai bên là 02 ban thị giả và 02 ban phụ; phía dưới chính tượng là ban thổ công. Phía trái là cổng đường vào đền. Mặt trước đền được trang trí hoa, cây cảnh, đôi phượng hoàng, lư hương, con rùa đá…để phục vụ cho nghi lễ chùa.
Minh Đức Hoàng Hậu là người phụ nữ Việt Nam danh tiếng, một thời lừng lẫy gắn liền với một chặng đường lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc trên vùng đất biên viễn phía Bắc chúng ta. Vào thế kỷ XI, năm Mậu dần 1038, một tù trưởng tên là Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên (vùng đất Cao Bằng ngày nay) tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu Trường Sinh, lập vợ là A Nùng làm Hoàng hậu, cát cứ một vùng rộng lớn đối diện với Nhà Tống ở bên kia biên giới. Triều Lý cho là làm phản, năm 1039, Vua Lý Thái Tông thân chinh thống lĩnh đại quân lên Cao Bằng dẹp loạn, bắt được Nùng Tồn Phúc và con trưởng Nùng Trí Thông dẫn giải về kinh đô xử tội. Hai mẹ con A Nùng và con thứ là Nùng Trí Cao chạy thoát thân. Năm Tân tỵ niên hiệu Càn phủ hữu đạo thứ ba triều Lý 1042, Trí Cao thừa kế chức cha xin dâng biểu triều đình. Vua Lý thương tình, ra chiếu tha tội và cho mẹ con Trí Cao cai quản châu Quảng Nguyên để giữ vững vùng đất phên dậu và còn ban cho đô ấn, phong chức Thái bảo. Năm Nhâm ngọ niên hiệu Minh đạo nguyên niên 1043, hai mẹ con chiếm cứ được ba châu: Do Lôi, Hỏa Động, Thảng Do và dựng nên nước Đại Lịch. Nhà Lý cho thêm 4 động: Hỏa Lôi, An Bình, Bà và châu Tư Lang. Sau đó, Trí Cao dâng biểu triều đình dẫn binh đi đánh Ung Châu Nhà Tống, mở mang bờ cõi. Cuộc chinh phạt đánh đâu thắng đấy, kết cục lấy được cả vùng đất Lĩnh Tây. Năm 1049, Trí Cao và bà A Nùng chiếm giữ được châu An Đức, tự xưng là Nam Thiên Quốc; đến năm 1052, đánh chiếm xong Ung Châu, Trí Cao xưng là Nhân Huệ hoàng đế và đặt Quốc hiệu Đại Nam, thế mạnh như chẻ tre, đến đâu cũng vỗ về an dân, được dân ủng hộ. Nhà Tống phải khiếp sợ kinh hoàng, ra chiếu: nếu ai giết được A Nùng hoặc Trí Cao sẽ được thưởng 3.000 quan. Theo truyện lưu truyền trong dân gian, một năm sau đó, Nùng Trí Cao bị thua trận ở Côn Lôn, chạy về phủ thự, ngày ngày buồn bã rồi cưỡi ngựa đi đâu biệt xứ. Bà A Nùng chiếm giữ động Đặc Ma, nay là vùng Vân Sơn tỉnh Vân Nam, nuôi trí trả thù cho con, Bà sai Nông Hạ Khanh, chiêu tập binh lính lên tới hơn vạn quân, mua sắm vũ khí, dự trữ lương thực, lập đội kỵ binh đánh lên phía Bắc, làm rung chuyển đất Ung Châu. Sau bị thua trận, Bà chạy về Quảng Nguyên và mất tại đây.
Minh Đức Hoàng Hậu A Nùng người phụ nữ đôn hậu, mạnh mẽ, tài giỏi, mưu lược. Bà đã có công lớn nuôi dạy, rèn luyện võ nghệ cho con trai Nùng Trí Cao, sau này Trí Cao trở thành một dũng tướng miền biên ải, người anh hùng giúp Nhà Lý dựng nên thành lũy trấn giữ biên cương, bảo vệ một vùng rộng lớn cương vực phía bắc của lãnh thổ quốc gia. Bà là quân sư trực tiếp cho Trí Cao trong từng trận đánh và được Nhà Lý mời làm cố vấn tướng lĩnh. Ngoài ra, Bà còn dạy nhân dân biết trồng lúa, hoa màu, chăn nuôi gia súc béo tốt, được dân chúng suy tôn là Thần gia súc.
Nhà Lý đặc chiếu truy phong bà A Nùng làm Bà Hoàng Đại Vương; để ghi nhớ công lao của Bà, nhân dân châu Quảng Nguyên lập đền thờ tại thôn phù Vạn, xã Kim Pha, châu Thạch Lâm. Ngôi đền mang tên Đền Bà Hoàng từ đó. Thời triều Lý, ngôi đền được phong là Thượng đẳng thần, xuân thu nhị kỳ quốc lễ. Các triều đại tiếp tục vinh tôn gia phong mỹ tự: Bà Hoàng phổ ứng hiển linh diệu cảm, Hồng hựu tĩnh trấn biên phu linh thông, phục viễn ninh cảnh, Vũ di hiển hưu, Cảm ứng hộ quốc, Ninh dân dương vũ đinh công Đại Vương.
Lễ hội Đền Bà Hoàng được tổ chức vào hai ngày 14 và 15 tháng giêng âm lịch trong năm. Lễ hội vừa thể hiện lòng thành kính với Bà Hoàng Đại Vương, vừa mang tính chất cầu mùa, cầu phúc, mong được Bà ban cho cuộc sống an lành, may mắn. Để chuẩn bị cho ngày lễ hội, nhân dân trong vùng tự giác đóng góp mỗi nhà một bơ gạo, ít tiền để mua hương hoa, tổ chức nghi lễ. Lễ vật thờ cúng gồm: mâm xôi, con lợn quay hoặc thủ lợn; đặc biệt có thêm một đoạn phèo non, sau thay bằng bánh chè lam cùng với hoa quả và ba bông lau to, tượng trưng cho bông lúa được mùa. Gia đình được chọn để dâng mâm lễ, là gia đình làm ăn thuận lợi từ năm trước, mọi người đều mạnh khỏe, con cháu thành đạt, ngoan ngoãn. Nghi lễ diễn ra long trọng, chủ tế là người có vai vế, uy tín trong vùng. Sau khi xong phần nghi lễ, gia đình dâng mâm lễ sẽ được cầm ba bông lau đem về cắm vào ruộng nhà mình, với ước mong cả vùng, trong đó có ruộng nhà bội thu. Tại lễ hội còn tổ chức các trò chơi dân gian ngay tại sân trước Đền. Sau đó, mọi người cùng nhau thụ lễ, ăn uống vui vẻ, đoàn kết, đông vui, thắm tình làng, nghĩa xóm, khu phố. Đền Bà Hoàng đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 2485/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng, ngày 04/11/2008.
Bà Hoàng Đại Vương A Nùng, một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử thế kỷ XI, người phụ nữ thao lược, tài ba, có công lớn trong thời Nhà Lý. Hình ảnh của Bà và ngôi đền thờ tự đã đi vào các trang tư liệu cố như Đại Việt sử ký toàn thư; trong cuốn “Đền thờ và lăng tẩm Việt Nam”, Bà Hoàng Đại Vương A Nùng đã được vinh danh trang trọng. Đến với Đền Bà Hoàng, giúp chúng ta hiểu biết thêm một trang sử hào hùng, biết ơn và tự hào về một bậc tiền nhân- người mẹ của Khau Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao, khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
ĐỀN QUAN TRIỀU

Đền Quan Triều ngự trên địa bàn xóm Đà Quận, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, đối diện với chùa Viên Minh. Ngôi đền thờ vị tướng tài ba, trung nghĩa Dương Tự Minh có công lớn bảo vệ giang sơn thời Nhà Lý. Từ xa xưa, đền Quan Triều có kiến trúc mặt bằng hình chữ “Nhị”, bao gồm: nhà bái đường và hậu cung. Phía bên phải của đền có một gian thờ nhỏ, thờ công chúa Hồng Liên, người vợ của ông. Đền đã được phong mỹ tự: “Quan Triều-Hồng Liên (Thiều Dung) công chúa thông diệu linh cảm, trợ quốc trấn biên, hoài phục tuệ tĩnh, phụng công vĩ diệt Đại Vương”.
Dương Tự Minh còn được nhân dân tôn sùng là Đức Thánh Đuổm, hay Cao Sơn Quý Minh. Ông là người dân tộc Tày, quê làng Bản Danh, xã Quan Triều, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Cha của ông từng làm quan châu mục lập nhiều chiến công chống quân Tống xâm lược trên phòng tuyến Sông Cầu. Cụ thân sinh Dương Tự Minh vốn là người chính trực, giàu lòng nhân nghĩa, có bao nhiêu bổng lộc được triều đình ban đều chia cho dân nghèo, nên không có nhà cao cửa rộng như người khác. Mãi đến 70 tuổi, hai cụ mới sinh được cậu con trai kháu khỉnh, trong túp lều sáng lên lấp lánh ánh hào quang như tỏa ra từ đứa con. Vì thế, cụ ông thân sinh đặt tên cho con mình là Dương Tự Minh (tự sáng lên). Lớn lên trong gia đình được cha mẹ nuôi dưỡng dạy bảo, Dương Tự Minh trưởng thành nhanh chóng, là một thanh niên khôi ngô, tuấn tú, cao lớn, sức vóc hơn người, đặc biệt là yêu kính mẹ cha, làng, nước, thương quý dân lành. Năm 20 tuổi, trong vùng, bọn phỉ tặc nổi lên hoành hành, cướp phá, dân tình hoang mạng khốn đốn, Dương Tự Minh đã tập hợp trai tráng nghĩa khí lập nên đội dân binh, quyết trừng trị bọn phỉ tặc, làng bản trở nên yên bình. Năm Đinh mùi 1127, Vua Lý Nhân Tông cho mời Dương Tự Minh lên triều, ban thưởng nhiều vàng bạc châu báu và gả công chúa Diên Bình cho ông. Đồng thời, phong chức châu mục vùng thượng nguyên cho ông, trấn trị cả phủ Phú Lương, một địa bàn chiến lược có ý nghĩa bảo vệ vùng biên cương rộng lớn phía Bắc, gồm các châu: Thượng Nguyên, Vĩnh Thông, Quảng Nguyên, Cảm hóa, Vạn Nhai, Tư Nông, Tuyên Hóa; cai quản một vùng lãnh thổ rộng lớn (nay thuộc các tỉnh: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang, một phần Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lạng Sơn).
Mùa xuân năm Giáp tý (1144), nhà Lý lại gả công chúa Thiều Dung (Hồng Liên) cho Dương Tự Minh và phong làm Phò mã Đô úy.
Mùa thu năm Ất sửu (1145), có kẻ yêu thuật người nước Tống là Đàm Hữu Lượng cầm đầu bọn giặc nhà Tống đánh chiếm châu Quảng Nguyên và vùng đất Thông Nông, cướp phá, nhũng nhiễu dân lành. Được tin, nhà Lý xuống Chiếu giao Phò mã Đố úy Dương Tự Minh làm Chánh tướng cùng hai Văn thần Nguyễn Như Mai và Lý Nghĩa Vinh dẫn đầu 2.000 quân đi dẹp giặc. Quân sĩ do ông chỉ huy tiến công như vũ bão, quân giặc náo loạn, tan tác bỏ chạy về phía Bắc. Đàm Hữu Lượng chạy về đến Ung Châu thì bị chặt đầu. Dẹp giặc xong, Dương Tự Minh ổn định lại vùng biên cương, trấn an dân tình và cùng đoàn quân chiến thẳng trở về kinh đô. Vua Lý Anh Tông sai các quan đại thần ra khỏi thành đô 10 dặm cùng nhân dân hân hoan nghênh đón.
Ông còn là vị quan thanh liêm, chính trực dám đương đầu với những tên quan tham lộng hành, mưu mô xảo quyệt như Đỗ Anh Vũ, để cứu lấy triều đình. Nhưng, sự việc không thành, ông trở về vùng núi Đuổm và mất tại đây. Thương tiếc ông, dân gian lưu truyền, rằng: về đến quê nhà, ông cởi bỏ quần áo xuống tắm mát dòng sông Phú Lương, trút bỏ hết bụi trần và mặc lên bộ quần áo chàm xanh người Tày, phi ngựa bay về trời.
Nhân dân trong vùng thương sót, trân trọng, biết ơn công lao của ông, đã dựng Đền thờ Đức thánh Đuổm. Nhà Lý, sau này truy phong ông làm Ủy Viễn Đôn Tỉnh Cao Sơn Quảng Độ Chi Thần, các triều đại phong kiến sắc phong: Thượng đẳng thần, nhân dân thì tôn ông là Đức Thánh. Ông là phò mã hai vị vua Nhà Lý, một danh tướng áo chàm nổi tiếng trung quân, ái quốc, thương dân bậc nhất trong lịch sử nước nhà.
Trên miền đất Cao Bằng, ông đã có công lao dẹp giặc Đàm Hữu Lượng giải phóng một vùng đất rộng lớn, bảo vệ vững chắc dải biên cương phía Bắc của nước Đại Việt. Thời kỳ làm thủ lĩnh phủ Phú Lương, Dương Tự Minh đã cùng công chúa Thiều Dung (Hồng Liên), thường xuyên đến vùng đất Quảng Nguyên an dân, dạy cho dân chúng biết trồng trọt, chăn nuôi, an cư lạc nghiệp. Khi ông mất, nhân dân xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm (nay là xã Hưng Đạo) đã quyên góp xây Đền thờ Quan triều để tưởng nhớ tới công lao, đức độ của ông.
Ngôi Đền được xây dựng từ thời nhà Lý, trải qua bao biến cố thời gian, những dấu tích xưa gần như mất hết, chỉ còn lại phần móng nền khoảng 30m2, được xây bằng gạch vồ thời nhà Mạc. Hiện nay đền đã được tu bổ, tôn tạo lại. Trong khu di tích, phía bên phải đền có một gác chuông rộng chừng 5m2, có quả chuông lớn, cao 178cm, thân cao 142 cm, quai cao 36 cm, đường kính miệng chuông rộng 106cm, cấu tạo, họa tiết giống như chuông chùa Viên Minh. Chuông được đúc từ năm 1611 và cùng với chuông chùa Viên Minh được xếp hạng Di tích nghệ thuật cấp quốc gia, theo Quyết định số 2861-QĐ/BT, ngày 04/9/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin; được công nhận là Bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2496/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 22 tháng 12 năm 2016.
Đền Quan Triều đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, theo Quyết định số 2487/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 11 năm 2008, của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Hằng năm, lễ hội Đền được tổ chức cùng thời gian với lễ hội chùa Viên Minh, tức ngày mùng 08 và ngày mùng 09 tháng giêng âm lịch. Phần lễ được tổ chức vào tối mùng 08, bà con xóm Đà Quận chuẩn bị mâm lễ gồm: thủ lợn, gà, xôi, hoa quả để dâng hương, khấn bái. Ngày 09 là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian sôi nổi, vui tươi: đánh đu, tung còn, ... Vào dịp đó, nhân dân thập phương, khách tham quan, du lịch lại nô nức trẩy hội mùa xuân về với Đền Quan Triều tham dự lễ hội, dâng hương cầu phúc, cầu lộc, cầu an, mong muốn cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
|