21/10/2024
CHÙA PHỐ CŨ
Chùa Phố Cũ tọa lạc giáp ba mặt đường phố, nằm gần cuối đường Phố Cũ, thuộc địa phận Tổ 1, phường Hợp Giang, thành phố Cao Bằng. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, ngôi chùa không còn nguyên vẹn gốc tích, hình hài như xưa, Chùa đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần và nội dung thờ tự tín ngưỡng cũng được bổ sung, thay đổi. Chùa Phố Cũ được dựng trên diện tích mặt bằng với quy mô khá lớn so với các chùa, miếu ở Cao Bằng.

Chùa Phố Cũ khởi nguyên là một ngôi miếu nhỏ thờ quan Vân Trường của cộng đồng người Hoa, được dựng lên vào đời Vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3 năm 1679, trên nền đất hiện tại. Xưa kia, các đoàn thương gia của người Hoa sang giao lưu buôn bán thường dừng chân nghỉ ngơi ở đây; sau nhiều lần, họ linh nghiệm rằng, chính vùng đất này đã giúp họ vượt qua khó khăn, gặp nhiều may mắn, là nhờ có Quan Vân Trường, một vị tướng tài ba thời Tam quốc của Trung Quốc hiển thánh cưu mang, nên đã lập nên miếu thờ để ghi nhớ công ơn với tên gọi là Miếu Quan Đế. Thời Nhà Nguyễn, khởi đầu từ Vua Gia Long (1802-1820) đến các vị vua kế tiếp, Miếu được sửa sang, xây dựng lại theo phong cách mới và được gọi là Chùa với chức năng thờ “Tiền thánh, hậu Phật”. Chùa Phố Cũ, vì vậy mà mang đậm nét dấu ấn kiến trúc Nhà Nguyễn, trên xà ngang gian Tiền đường có ghi Thành Thái bát niên, gian Trung đường ghi Bảo Đại nguyên niên (1926). Chùa còn lưu lại được 5 tấm bia đá, gồm: Bia Gia Long (1814), Bia Minh Mạng (1825), Bia Tự Đức (1858), Bia Tự Đức (1876), Bia Thành Thái (1893) ghi lại công đức tu sửa Chùa.
Trải qua thời gian dài Chùa xuống cấp, năm 1945, nhân dân địa phương đã quyên góp trùng tu, xây thêm lầu ở hai cung chính, kiến trúc hoa văn kiểu hoa thị, đắp rồng chầu thời Nhà Nguyễn. Sau khi Đền thờ Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Phố Thầu không còn nữa, nhân dân đã chuyển sang thờ tại Chùa Phố Cũ.
Sau chiến sự năm 1979, Chùa cũng bị phá hoại, các loại đồ thờ bị xáo trộn, một số được chuyển đến Đền Ngọc Thanh; còn lại được giữ tại Chùa như: Hương án cao 1,2m, dài 1,85m, rộng 1,6m được sơn son thiếp vàng, có chạm trổ mặt hổ và các vân xoắn. Trải qua thời gian dài và ảnh hưởng chiến tranh, nhưng Hương án vẫn còn nguyên vẹn vẻ cố kính của nó; bên cạnh đó còn giữ được Ngai thờ chạm đầu rồng, tay kiệu, lâu, bài vị, mâm bồng, cây nến và một sô hiện vật bằng sứ: bát hương, lọ hoa.
Hiện nay chùa Phố cũ đã được trùng tu, tôn tao. Ngoài cổng là tượng Quan Thánh Đế Quân ở bên trái và tượng Văn Xương Đế Quân ở bên phải. Ở cửa chính có bức hoành phi khắc chữ nổi trên tường ghi ba chữ hán: “Hiển Thánh Cung”. Gian bên phải thờ các vị Nhị Thập Bát Tú, bàn thờ của Hiếu Khương Hoàng Hậu, bàn thờ Đức Thánh Trần. Tại gian chính cung, ở giữa là bệ thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, các vị thần thiên đình và hạ giới; bên trái thờ Đức Thánh hiền, bên phải thờ Đức Ông.
Từ đó đến gian hậu cung được nối bởi một hiên, bên phải hiên có gác chuông. Hậu cung có bốn cửa ra vào bằng gỗ, mỗi cánh cửa đều có rồng đắp nổi trong khung hình chữ nhật, dưới khung là hoa cúc đắp nổi màu đẹp nền nã. Trong gian hậu cung gồm ba cấp thờ: cấp thờ ở vị trí cao nhất là thờ Phật Tam Thế Chương Phật có ba pho tượng ngồi xếp bằng trên các tòa sen nhiều cánh. Cấp thờ thứ hai thấp hơn có đức Phật A di đà nổi bật cả ban thờ; cấp thứ ba là các tượng phật: Thích Ca Mâu Ni, A Nan Tôn Giả, Ca Diếp Tôn Giả.
Bên cạnh những giá trị văn hóa, tín ngưỡng, Chùa Phố Cũ còn mang trong mình gía trị lịch sử cách mạng, từng chứng kiến cuộc nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ, oanh liệt của quần chúng nhân dân trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành độc lập, tự do cho dân tộc. Tại đây, ngày 22 tháng 08 năm 1945, thực sự là ngày hội của non sông, đông đảo nhân dân các dân tộc thị xã Cao Bằng tuần hành, thị uy, biểu dương lực lượng cách mạng trên các trục đường phố, sau đó đã hội tụ về sân Chùa, tổ chức cuộc mít tinh rầm rộ với quy mô lớn để làm lễ công bố ra mắt Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh Cao Bằng và thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời Thị xã. Đây là sự kiện chính trị trọng đại, thời khắc thiêng liêng, hào hùng, lật đổ tầng lớp thống trị, tay sai phong kiến thực dân, giành chính quyền về tay nhân dân. Chính quyền cách mạng chính thức ra đời. Chùa Phố Cũ đã đi vào lịch sử vẻ vang của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng).
Ngày 22 tháng 8 năm 1945, chùa Phố cũ được Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh, là di tích tiêu biểu cho nền kiến trúc thời nhà Nguyễn.
Lễ hội Chùa Phố Cũ được tổ chức vào ngày 2/2 âm lịch hàng năm. Nhân dân địa phương tổ chức rước kiệu, dâng hương tế lễ; có năm còn bày mâm ăn uống chung làm cho không khí hội chùa đầu xuân càng thêm tưng bừng, đoàn kết, đông vui, cuốn hút khách lữ hành về đây dâng hương cầu phúc, cầu lộc, chiêm bái.
ĐỀN QUAN TRIỀU

Đền Quan Triều ngự trên địa bàn xóm Đà Quận, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, đối diện với chùa Viên Minh. Ngôi đền thờ vị tướng tài ba, trung nghĩa Dương Tự Minh có công lớn bảo vệ giang sơn thời Nhà Lý. Từ xa xưa, đền Quan Triều có kiến trúc mặt bằng hình chữ “Nhị”, bao gồm: nhà bái đường và hậu cung. Phía bên phải của đền có một gian thờ nhỏ, thờ công chúa Hồng Liên, người vợ của ông. Đền đã được phong mỹ tự: “Quan Triều-Hồng Liên (Thiều Dung) công chúa thông diệu linh cảm, trợ quốc trấn biên, hoài phục tuệ tĩnh, phụng công vĩ diệt Đại Vương”.
Dương Tự Minh còn được nhân dân tôn sùng là Đức Thánh Đuổm, hay Cao Sơn Quý Minh. Ông là người dân tộc Tày, quê làng Bản Danh, xã Quan Triều, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Cha của ông từng làm quan châu mục lập nhiều chiến công chống quân Tống xâm lược trên phòng tuyến Sông Cầu. Cụ thân sinh Dương Tự Minh vốn là người chính trực, giàu lòng nhân nghĩa, có bao nhiêu bổng lộc được triều đình ban đều chia cho dân nghèo, nên không có nhà cao cửa rộng như người khác. Mãi đến 70 tuổi, hai cụ mới sinh được cậu con trai kháu khỉnh, trong túp lều sáng lên lấp lánh ánh hào quang như tỏa ra từ đứa con. Vì thế, cụ ông thân sinh đặt tên cho con mình là Dương Tự Minh (tự sáng lên). Lớn lên trong gia đình được cha mẹ nuôi dưỡng dạy bảo, Dương Tự Minh trưởng thành nhanh chóng, là một thanh niên khôi ngô, tuấn tú, cao lớn, sức vóc hơn người, đặc biệt là yêu kính mẹ cha, làng, nước, thương quý dân lành. Năm 20 tuổi, trong vùng, bọn phỉ tặc nổi lên hoành hành, cướp phá, dân tình hoang mạng khốn đốn, Dương Tự Minh đã tập hợp trai tráng nghĩa khí lập nên đội dân binh, quyết trừng trị bọn phỉ tặc, làng bản trở nên yên bình. Năm Đinh mùi 1127, Vua Lý Nhân Tông cho mời Dương Tự Minh lên triều, ban thưởng nhiều vàng bạc châu báu và gả công chúa Diên Bình cho ông. Đồng thời, phong chức châu mục vùng thượng nguyên cho ông, trấn trị cả phủ Phú Lương, một địa bàn chiến lược có ý nghĩa bảo vệ vùng biên cương rộng lớn phía Bắc, gồm các châu: Thượng Nguyên, Vĩnh Thông, Quảng Nguyên, Cảm hóa, Vạn Nhai, Tư Nông, Tuyên Hóa; cai quản một vùng lãnh thổ rộng lớn (nay thuộc các tỉnh: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang, một phần Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lạng Sơn).
Mùa xuân năm Giáp tý (1144), nhà Lý lại gả công chúa Thiều Dung (Hồng Liên) cho Dương Tự Minh và phong làm Phò mã Đô úy.
Mùa thu năm Ất sửu (1145), có kẻ yêu thuật người nước Tống là Đàm Hữu Lượng cầm đầu bọn giặc nhà Tống đánh chiếm châu Quảng Nguyên và vùng đất Thông Nông, cướp phá, nhũng nhiễu dân lành. Được tin, nhà Lý xuống Chiếu giao Phò mã Đố úy Dương Tự Minh làm Chánh tướng cùng hai Văn thần Nguyễn Như Mai và Lý Nghĩa Vinh dẫn đầu 2.000 quân đi dẹp giặc. Quân sĩ do ông chỉ huy tiến công như vũ bão, quân giặc náo loạn, tan tác bỏ chạy về phía Bắc. Đàm Hữu Lượng chạy về đến Ung Châu thì bị chặt đầu. Dẹp giặc xong, Dương Tự Minh ổn định lại vùng biên cương, trấn an dân tình và cùng đoàn quân chiến thẳng trở về kinh đô. Vua Lý Anh Tông sai các quan đại thần ra khỏi thành đô 10 dặm cùng nhân dân hân hoan nghênh đón.
Ông còn là vị quan thanh liêm, chính trực dám đương đầu với những tên quan tham lộng hành, mưu mô xảo quyệt như Đỗ Anh Vũ, để cứu lấy triều đình. Nhưng, sự việc không thành, ông trở về vùng núi Đuổm và mất tại đây. Thương tiếc ông, dân gian lưu truyền, rằng: về đến quê nhà, ông cởi bỏ quần áo xuống tắm mát dòng sông Phú Lương, trút bỏ hết bụi trần và mặc lên bộ quần áo chàm xanh người Tày, phi ngựa bay về trời.
Nhân dân trong vùng thương sót, trân trọng, biết ơn công lao của ông, đã dựng Đền thờ Đức thánh Đuổm. Nhà Lý, sau này truy phong ông làm Ủy Viễn Đôn Tỉnh Cao Sơn Quảng Độ Chi Thần, các triều đại phong kiến sắc phong: Thượng đẳng thần, nhân dân thì tôn ông là Đức Thánh. Ông là phò mã hai vị vua Nhà Lý, một danh tướng áo chàm nổi tiếng trung quân, ái quốc, thương dân bậc nhất trong lịch sử nước nhà.
Trên miền đất Cao Bằng, ông đã có công lao dẹp giặc Đàm Hữu Lượng giải phóng một vùng đất rộng lớn, bảo vệ vững chắc dải biên cương phía Bắc của nước Đại Việt. Thời kỳ làm thủ lĩnh phủ Phú Lương, Dương Tự Minh đã cùng công chúa Thiều Dung (Hồng Liên), thường xuyên đến vùng đất Quảng Nguyên an dân, dạy cho dân chúng biết trồng trọt, chăn nuôi, an cư lạc nghiệp. Khi ông mất, nhân dân xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm (nay là xã Hưng Đạo) đã quyên góp xây Đền thờ Quan triều để tưởng nhớ tới công lao, đức độ của ông.
Ngôi Đền được xây dựng từ thời nhà Lý, trải qua bao biến cố thời gian, những dấu tích xưa gần như mất hết, chỉ còn lại phần móng nền khoảng 30m2, được xây bằng gạch vồ thời nhà Mạc. Hiện nay đền đã được tu bổ, tôn tạo lại. Trong khu di tích, phía bên phải đền có một gác chuông rộng chừng 5m2, có quả chuông lớn, cao 178cm, thân cao 142 cm, quai cao 36 cm, đường kính miệng chuông rộng 106cm, cấu tạo, họa tiết giống như chuông chùa Viên Minh. Chuông được đúc từ năm 1611 và cùng với chuông chùa Viên Minh được xếp hạng Di tích nghệ thuật cấp quốc gia, theo Quyết định số 2861-QĐ/BT, ngày 04/9/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin; được công nhận là Bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2496/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 22 tháng 12 năm 2016.
Đền Quan Triều đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, theo Quyết định số 2487/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 11 năm 2008, của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Hằng năm, lễ hội Đền được tổ chức cùng thời gian với lễ hội chùa Viên Minh, tức ngày mùng 08 và ngày mùng 09 tháng giêng âm lịch. Phần lễ được tổ chức vào tối mùng 08, bà con xóm Đà Quận chuẩn bị mâm lễ gồm: thủ lợn, gà, xôi, hoa quả để dâng hương, khấn bái. Ngày 09 là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian sôi nổi, vui tươi: đánh đu, tung còn, ... Vào dịp đó, nhân dân thập phương, khách tham quan, du lịch lại nô nức trẩy hội mùa xuân về với Đền Quan Triều tham dự lễ hội, dâng hương cầu phúc, cầu lộc, cầu an, mong muốn cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
|