CHÙA ĐỐNG LÂN
Chùa Đống Lân tọa lạc bên sườn nam gò Đống Lân thuộc xóm Hồng Quang 2, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng. Ngôi chùa thờ hai anh em Trần Quý, Trần Kiên và thờ phật, thờ Thạch Sanh, thờ Thánh mẫu. Đây là một trong những điểm đến hấp dẫn của nhân dân địa phương và du khách trong lễ hội xuân hàng năm.
anh tin bai

Đống Lân là ngôi chùa cổ được dựng lên từ lâu, tương truyền rằng, vào thời thập nhị sứ quân, tại châu Thạch Lâm có hai anh em Trần Quý và Trần Kiên nổi tiếng về nghề thuốc chữa bệnh, hiểu biết sâu rộng các loại thuốc quý từ thiên nhiên, trừ được các loại rắn độc, trị bệnh cho người. Hơn nữa, người cha của hai ông lấy được vợ tiên nên thông thạo các phép thuật lạ có sức mạnh siêu nhiên đã truyền lại cho các con trai của mình. Nhờ đó, hai ông có khả năng chế ngự được tà ma, diệt trừ yêu quái, bảo vệ dân lành, giữ gìn cuộc sống ổn định bình yên. Trọn đời, Trần Quý và Trần Kiên luôn ghi công tích đức, làm việc thiện giúp dân nghèo trong khó khăn hoạn nạn. Hai ông đến đâu là bệnh tật bị đẩy lui, ma quỷ hoảng hốt bỏ chạy, cuộc sống nhân dân trở lại an bình. Khi các ông mất, nhân dân địa phương vô cùng thương xót, họ đã góp công sức lập đền thờ ghi nhớ công ơn và mong hai ông trên chốn linh thiêng luôn phù hộ độ trì cho mọi người.

Ban đầu, nhân dân dựng đền thờ tại đỉnh Khau Dủa, nằm phía Bắc làng Nà Vài, cách chùa Đống Lân hiện tại chừng 2000m. Khau Dủa, tiếng Tày có nghĩa là đèo chùa, hay đồi chùa, nơi đây núi cao, khe sâu, rừng rậm, nhiều thú dữ, đường độc đạo đi lại vất vả, rất dễ gặp nguy hiểm. Việc thăm nom đền thờ khó khăn, nhu cầu tín ngưỡng hương, bái, cầu cúng bị hạn chế nhiều. Trước thực trạng đó, người dân địa phương đã đưa vấn đề này ra bàn bạc và thống nhất  làm lễ xin hai ông cho di dời vị trí đền đến chỗ khác thuận lợi hơn. Như cảm thấu được điều này, vào một ngày trời râm, bỗng dưng có cơn lốc lớn làm tốc hết mái đền, một gắp gianh bay là là rồi nhẹ nhàng rơi xuống sườn nam gò Đống Lân. Nhân dân trong vùng coi là điềm thiêng, sự mách bảo của thần linh, nên đã dựng ngôi đền tại đó và rước bát hương  từ Khau Dủa về thờ phụng. Nhưng, khi ấy có điều khác lạ là, thờ Trần Quý tại đền Đống Lân, còn Trần Kiên thì lập đền Cai Cộng và thờ tại đó. Hai anh em không cùng ban thờ một chỗ. Tuy nhiên, hai đền thờ này cũng gần nhau và đều thuộc xã Vu Tuyền. Trải qua các triều đại, đều được nhà vua sắc phong và cung tiến mỹ tự: Đống Lân diệu linh thông cảm, trợ quốc hiệu linh, phấn dũng ninh biên, thủy khánh tứ hỗ, dương liệt hiển linh Đại Vương; Cai Cộng linh diệu hiển ứng trợ vũ, anh quả hùng đoán Đại Vương. Thời Nhà Lê, Trần Quý được phong làm Đống Lân Đại Vương trung đẳng thần; Trần Kiên làm Cai Cộng Đại Vương hạ đẳng thần, quốc tế hai mùa xuân thu.
Trong chùa Đống Lân còn có ban thờ Thạch Sanh (là nhân vật trong truyền thuyết Thạch Sanh của đồng bào dân tộc Tày). Theo truyện kể, nhân vật Thạch Sanh là người ở phố Cao Bình (khu vực chùa Đống Lân, xã Hưng Đạo), toàn bộ câu chuyện dân gian đó diễn ra ở đây. Khâm phục trước phẩm đức chân thành, thật thà chất phác, trung dũng, tài năng và khí phách của Thạch Sanh luôn hướng tới cái thiện; nhân dân trong vùng đã đưa Thạch Sanh vào thờ tự ở chùa Đống Lân. Chùa Đống Lân còn được người dân địa phương gọi là Chùa Thạch Sanh hay là Đền Thạch Sanh. Điều đó đã trở thành tâm thức dân gian truyền thống quen thuộc trong lòng mỗi người dân nơi đây.

Dưới thời Nhà Lý, vào cuối thế kỷ XI, phật giáo thịnh hành, nên chùa chiền được xây dựng khắp nơi trong cả nước. Ngay tại đền thờ Trần Quý và Trần Kiên, đền được trùng tu, tôn tạo để thờ phật. Từ đền chuyển sang chùa, ngôi chùa trải qua các biến cố lịch sử và được xây dựng, tôn tạo lại nhiều lần.

Năm Tân hợi niên hiệu Càn thống thứ 19 (1611), Hoàng hậu Nhà Mạc cho xây chùa theo hình chữ “Đinh”, có hai bên hành lang và hậu đường, tăng phòng. Đến khi Mạc Long Thái thua trận, Nhà Lê chiếm cứ, ngôi chùa lần nữa bị đốt cháy hoàn toàn, sau đó lại quyên tiền tu sửa nhà chùa. Đến năm Canh thân, niên hiệu cảnh hưng 1740, giặc dã nổi lên bốn bề, chúng vào chiếm cứ chùa; quan quân triều đình đến dẹp loạn, ngôi chùa bị hủy hoại nặng. Thời Tây Sơn, năm Cảnh thịnh, núi đồi quanh đó bị cháy rừng lan đến tận chùa, nhân dân quanh vùng lại hưng công tu sửa, đúc chuông, nhưng sau đó Trấn thủ hủy chuông lấy làm đồ đồng khí.

Cho đến thời Nhà Nguyễn, ngôi chùa được dựng lại toàn bộ gần như ngày nay. Nơi thờ Trần Quý và Trần Kiên được đặt tại nhà hành lang phía bên trái, gian chính diện thì thờ phật và thờ Thạch Sanh.

Chùa Đống Lân được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo  Quyết định số 71/QĐ-UBND, ngày 15/01/1997 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng

Năm 2004, chùa Đống Lân được trùng tu tôn tạo, xây dựng hai gian thờ phật và xây tường rào bao quanh để bảo vệ. Năm 2008, Ban đại diện phật giáo tỉnh Cao Bằng còn cho xây thêm một gian thờ mẫu và thỉnh sư về trụ trì tại chùa. Đến năm 2011, tiến hành xây dựng tam quan và nhà thờ tổ.

Lễ hội chùa Đống Lân được tổ chức vào ngày mùng 07 và mùng 08 tháng giêng âm lịch, với các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian phong phú, sinh động, tưng bừng không khí lễ hội xuân đã thu hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách tới chùa dự hội, chiêm bái.

ĐỀN QUAN TRIỀU

anh tin bai

Đền Quan Triều ngự trên địa bàn xóm Đà Quận, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, đối diện với chùa Viên Minh. Ngôi đền thờ vị tướng tài ba, trung nghĩa Dương Tự Minh có công lớn bảo vệ giang sơn thời Nhà Lý. Từ xa xưa, đền Quan Triều có kiến trúc mặt bằng hình chữ “Nhị”, bao gồm: nhà bái đường và hậu cung. Phía bên phải của đền có một gian thờ nhỏ, thờ công chúa Hồng Liên, người vợ của ông. Đền đã được phong mỹ tự: “Quan Triều-Hồng Liên (Thiều Dung) công chúa thông diệu linh cảm, trợ quốc trấn biên, hoài phục tuệ tĩnh, phụng công vĩ diệt Đại Vương”.

Dương Tự Minh còn được nhân dân tôn sùng là Đức Thánh Đuổm, hay Cao Sơn Quý Minh. Ông là người dân tộc Tày, quê làng Bản Danh, xã Quan Triều, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Cha của ông từng làm quan châu mục lập nhiều chiến công chống quân Tống xâm lược trên phòng tuyến Sông Cầu. Cụ thân sinh Dương Tự Minh vốn là người chính trực, giàu lòng nhân nghĩa, có bao nhiêu bổng lộc được triều đình ban đều chia cho dân nghèo, nên không có nhà cao cửa rộng như người khác. Mãi đến 70 tuổi, hai cụ mới sinh được cậu con trai kháu khỉnh, trong túp lều sáng lên lấp lánh ánh hào quang như tỏa ra từ đứa con. Vì thế, cụ ông thân sinh đặt tên cho con mình là Dương Tự Minh (tự sáng lên). Lớn lên trong gia đình được cha mẹ nuôi dưỡng dạy bảo, Dương Tự Minh trưởng thành nhanh chóng, là một thanh niên khôi ngô, tuấn tú, cao lớn, sức vóc hơn người, đặc biệt là yêu kính mẹ cha, làng, nước, thương quý dân lành. Năm 20 tuổi, trong vùng, bọn phỉ tặc nổi lên hoành hành, cướp phá, dân tình hoang mạng khốn đốn, Dương Tự Minh đã tập hợp trai tráng nghĩa khí lập nên đội dân binh, quyết trừng trị bọn phỉ tặc, làng bản trở nên yên bình. Năm Đinh mùi 1127, Vua Lý Nhân Tông cho mời Dương Tự Minh lên triều, ban thưởng nhiều vàng bạc châu báu và gả công chúa Diên Bình cho ông. Đồng thời, phong chức châu mục vùng thượng nguyên cho ông, trấn trị cả phủ Phú Lương, một địa bàn chiến lược có ý nghĩa bảo vệ vùng biên cương rộng lớn phía Bắc, gồm các châu: Thượng Nguyên, Vĩnh Thông, Quảng Nguyên, Cảm hóa, Vạn Nhai, Tư Nông, Tuyên Hóa; cai quản một vùng lãnh thổ rộng lớn (nay thuộc các tỉnh: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang, một phần Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lạng Sơn).

Mùa xuân năm Giáp tý (1144), nhà Lý lại gả công chúa Thiều Dung (Hồng Liên) cho Dương Tự Minh và phong làm Phò mã Đô úy.

Mùa thu năm Ất sửu (1145), có kẻ yêu thuật người nước Tống là Đàm Hữu Lượng cầm đầu bọn giặc nhà Tống đánh chiếm châu Quảng Nguyên và vùng đất Thông Nông, cướp phá, nhũng nhiễu dân lành. Được tin, nhà Lý xuống Chiếu giao Phò mã Đố úy Dương Tự Minh làm Chánh tướng cùng hai Văn thần Nguyễn Như Mai và Lý Nghĩa Vinh dẫn đầu 2.000 quân đi dẹp giặc. Quân sĩ do ông chỉ huy tiến công như vũ bão, quân giặc náo loạn, tan tác bỏ chạy về phía Bắc. Đàm Hữu Lượng chạy về đến Ung Châu thì bị chặt đầu. Dẹp giặc xong, Dương Tự Minh ổn định lại vùng biên cương, trấn an dân tình và cùng đoàn quân chiến thẳng trở về kinh đô. Vua Lý Anh Tông sai các quan đại thần ra khỏi thành đô 10 dặm cùng nhân dân hân hoan nghênh đón.

Ông còn là vị quan thanh liêm, chính trực dám đương đầu với những tên quan tham lộng hành, mưu mô xảo quyệt như Đỗ Anh Vũ, để cứu lấy triều đình. Nhưng, sự việc không thành, ông trở về vùng núi Đuổm và mất tại đây. Thương tiếc ông, dân gian lưu truyền, rằng: về đến quê nhà, ông cởi bỏ quần áo xuống tắm mát dòng sông Phú Lương, trút bỏ hết bụi trần và mặc lên bộ quần áo chàm xanh người Tày, phi ngựa bay về trời.

Nhân dân trong vùng thương sót, trân trọng, biết ơn công lao của ông, đã dựng Đền thờ Đức thánh Đuổm. Nhà Lý, sau này truy phong ông làm Ủy Viễn Đôn Tỉnh Cao Sơn Quảng Độ Chi Thần, các triều đại phong kiến sắc phong: Thượng đẳng thần, nhân dân thì tôn ông là Đức Thánh. Ông là phò mã hai vị vua Nhà Lý, một danh tướng áo chàm nổi tiếng trung quân, ái quốc, thương dân bậc nhất trong lịch sử nước nhà.

Trên miền đất Cao Bằng, ông đã có công lao dẹp giặc Đàm Hữu Lượng giải phóng một vùng đất rộng lớn, bảo vệ vững chắc dải biên cương phía Bắc của nước Đại Việt. Thời kỳ làm thủ lĩnh phủ Phú Lương, Dương Tự Minh đã cùng công chúa Thiều Dung (Hồng Liên), thường xuyên đến vùng đất Quảng Nguyên an dân, dạy cho dân chúng biết trồng trọt, chăn nuôi, an cư lạc nghiệp. Khi ông mất, nhân dân xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm (nay là xã Hưng Đạo) đã quyên góp xây Đền thờ Quan triều để tưởng nhớ tới công lao, đức độ của ông.

 Ngôi Đền được xây dựng từ thời nhà Lý, trải qua bao biến cố thời gian, những dấu tích xưa gần như mất hết, chỉ còn lại phần móng nền khoảng 30m2, được xây bằng gạch vồ thời nhà Mạc. Hiện nay đền đã được tu bổ, tôn tạo lại. Trong khu di tích, phía bên phải đền có một gác chuông rộng chừng 5m2, có quả chuông lớn, cao 178cm, thân cao 142 cm, quai cao 36 cm, đường kính miệng chuông rộng 106cm, cấu tạo, họa tiết giống như chuông chùa Viên Minh. Chuông được đúc từ năm 1611 và cùng với chuông chùa Viên Minh được xếp hạng Di tích nghệ thuật cấp quốc gia, theo Quyết định số 2861-QĐ/BT, ngày 04/9/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin; được công nhận là Bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2496/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 22 tháng 12 năm 2016. 

Đền Quan Triều đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, theo Quyết định số 2487/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 11 năm 2008, của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng.

Hằng năm, lễ hội Đền được tổ chức cùng thời gian với lễ hội chùa Viên Minh, tức ngày mùng 08 và ngày mùng 09 tháng giêng âm lịch. Phần lễ được tổ chức vào tối mùng 08, bà con xóm Đà Quận chuẩn bị mâm lễ gồm: thủ lợn, gà, xôi, hoa quả để dâng hương, khấn bái. Ngày 09 là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian sôi nổi, vui tươi: đánh đu, tung còn, ... Vào dịp đó, nhân dân thập phương, khách tham quan, du lịch lại nô nức trẩy hội mùa xuân về với Đền Quan Triều tham dự lễ hội, dâng hương cầu phúc, cầu lộc, cầu an, mong muốn cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tin tức
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập